Lá rụng về cội Apartment nơi chàng ở nằm
trên tầng hai, phía sau phòng ăn là một balcony nhỏ, ở
đây có một chiếc ghế nhựa, chàng thường ngồi
lên đó, vừa hút thuốc vừa nhìn thiên hạ phía dưới.
Hoặc mỗi khi có điều gì phiền não chàng cũng
thường nhìn trời đất quạnh hiu thổi những
ngụm khói cay xè đắng nghét vào không gian để trầm tư mặc
tưởng. Phía dưới balcony là một khoảng sân rộng
dùng làm parking. Mỗi chiều sau giờ tan sở những
chiếc xe đủ loại, đủ màu sắc, cũ mới lẫn
lộn từ các nơi về đậu san sát bên nhau. Ðể giải
buồn chàng thường phân nhóm xe theo màu sắc và ví khu parking
này như là nước Mỹ, còn tất cả màu sắc kia
đại diện cho từng màu da của từng dân tộc
qui tụ về đây để làm nên hợp chủng quốc. Chỉ một
parking nhỏ thu hẹp này thôi, cũng đủ thấy giàu
nghèo khó mà lẫn lộn. Cái tật ghiền thuốc chàng
không bỏ được, cho nên chiều nào chàng cũng phải
ra balcony để giải quyết cơn ghiền, thét đâm thành thói
quen. Và rồi không biết tự lúc nào, chàng phát giác ra chủ
nhân của chiếc Toyota Cressida đời 89 màu bạc cứ
mỗi ngày vào khoảng 4 giờ chiều về đậu phía
dưới parking là một cô gái Việt Nam. Mặc dù chàng có thể
quan sát từ phía sau lưng, nhưng chàng tự cả quyết như
thế, bởi vóc dáng mảnh khảnh của cô gái rất
dễ phân biệt trong đám Mỹ đủ màu, huống hồ
cô gái lại có một suối tóc đen huyền thả ngang thắt
lưng. Mái tóc đặc biệt này chỉ có ở những cô gái
Việt "Chào chú" Chàng ấp úng: "Chào cô bé. Cô bé đi làm về?"
"Dạ" Lần hội ngộ chỉ
có bấy nhiêu thôi. Nhưng không hiểu sao khi thấy được
rõ ràng khuôn mặt cô gái chàng bỗng giật mình.
Cảm giác cho chàng biết là khuôn mặt đó rất ư quen thuộc,
chàng đã từng gặp ở đâu nhiều lần trong cuộc
đời. Khuôn mặt đó đã làm tôi
choáng váng. Những lúc đêm về, ngước nhìn lên bầu
trời hồn lang thang một mình trong không gian bao la
giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh, bỗng nhiên tôi quá cô
đơn. Một quá khứ tuổi thơ ở nơi nào xa thẳm trong
tận đáy tâm tư bỗng hiện về tê buốt hãi
hùng đến quá đỗi chạnh lòng. Ðành cuả
tôi giờ này đang làm gì ở thế giới miên viễn
bên kia. Có thơ thẩn một mình nhìn lên bầu trời
giống như tôi lúc này hay không? Bất giác tôi tự trả lời:
nơi ấy nàng đơn độc quá không còn tôi bên cạnh để
cùng tưởng nhớ về một chuỗi tháng năm qua không
thể nào quên... Ðành ngồi sau lưng tôi, chiếc
xe Honda Dam chỉ cần 5 phút chạy ngoằn ngoèo là
đã ra khỏi thị trấn, nàng hỏi: "Bây giờ mình đi đâu
đây Tấn?" "Ði đến tận cùng trời cuối
đất" Cùng trời cuối đất cuả
tôi là chạy lòng vòng trên những con đường đất
nhỏ. Nàng rất thích những con đường này, bởi
vì dưới những lũy tre im vắng mà những tàng
lá trên cao hai bên giao nhau chỉ để rớt xuống mặt
đường những giọt nắng màu hanh vàng. Xe chạy qua,
những giọt nắng bám lên người và nàng thích thú đưa tay
ra hứng. Những lúc đó khuôn mặt nàng đầy rạng rỡ
thanh cao. Còn tôi trần tục thì thích những con
đường làng bởi vì nó đầy ổ gà lởm chởm,
có lý do để nàng ôm chặt lấy tôi để khỏi bị
rớt xuống đường. Thỉnh thoảng, một luồng
gió nhẹ cuốn theo mùi thơm cuả cỏ, thổi làn tóc
dài quyện lấy vai tôi. Một vài sợi tóc nghịch ngợm
vuốt ve vào mặt làm tôi ngây ngây ngất ngất. Nàng cũng
biết rõ là tôi ma giáo cố ý không tránh ổ gà,
nhưng người thanh cao lại đồng loã với tên phàm
tục để cho kỷ niệm tràn đầy tuổi đầu
đời cuả hai kẻ yêu nhau. Lần về phép đầu tiên từ
quân trường Ðồng Ðế, năm đó thị trấn Ninh
Hoà bị ảnh hưởng cuả một cơn bão không biết
từ đâu đưa tới. Nước từ thượng nguồn
KrongBut Ban mê Thuột đổ về con sông Dinh nhỏ xíu nằm
giữa thị trấn. Con sông lưu lượng không đủ chưá
nên nước tràn ngập các lối đi. Nhà nàng nằm trên bờ
sông không hiểu sao vẫn còn đứng vững trước
cơn phong ba bão táp. Mưa đã tạnh, chỉ còn tiếng
nước bì bõm theo đôi giày nhà binh nặng trĩu đối
vơí anh chàng sinh viên sĩ quan non trẻ như tôi. Nhà vắng,
không một bóng người, chỉ có nàng đang nằm ngủ
trên chiếc giường tre ọp ẹp. Nàng nằm ngủ tỉnh
bơ xem như chuyện gió mưa là chuyện cuả trời đất
còn chuyện ngủ là chuyện cuả riêng nàng, hai
chuyện đó không dính nhập vào nhau. Về phép không báo trước,
tôi định dành cho nàng một bất ngờ. Ai dè ngược lại
nàng dành cho tôi một bất ngờ lớn hơn. Nàng nằm
đó, nét con gái với những đường cong chưa phát triển hết
cuả tuổi dậy thì đã làm cho tim tôi bỗng
nghẹn ngào thảng thốt. Trong giấc ngủ nàng như
hơi mỉm cười hơi thở nhẹ làm cặp vú bằng
cái núm cau nhỏ xíu quên mặc áo ngực nhấp nhô như mời
gọi. Tôi chỉ biết quì bên cạnh giường nàng
giữa dòng nước để ngắm nhìn im lặng.
Trong tôi là một nỗi đam mê thánh thiện, tiềm thức
đã in sâu khuôn mặt nàng và làn tóc rối. Hệ thống
quay phim trong đầu tôi làm việc, tôi quay đi quay lại khuôn
mặt thánh thiện đầy man dại kia trong giấc ngủ
và lưu giữ nó vào từng sợi máu trong hệ thống thần
kinh não tủy. Mỗi khi nhớ đến tôi chỉ cần
nhắm mắt, khuôn mặt nàng như một khúc phim quay chậm
lần lượt hiện ra cùng với niềm thương yêu theo
tôi cho đến cuối đời. Khuôn mặt đó rất thân quen,
chàng làm sao quên được. Chàng cố moi óc để nhớ, để
suy luận cô gái này mình đã từng gặp ở
đâu, nhưng không thể nào nhớ nổi. Cô gái chỉ vào khoảng
20 trở lại, còn chàng thì đã ngoài 40, có một
khoảng thời gian quá cách biệt không thể tạo ra
trường hợp gặp nhau. Nhưng không hiểu sao từ lúc
tình cờ thấy được khuôn mặt cô gái chàng đâm ra
vương vấn mơ hồ. Trước đây mỗi lúc ghiền thuốc
chàng phải ra balcony để hút vì sợ khói làm ngộp
căn phòng. Giờ thì chàng cố tạo ra cơ hội,
chiều nào cũng vậy vào giờ nhất định ra
ngoài balcony để có lý do nhìn vớ vẩn xuống
bãi đậu xe, chờ đợi được nhìn cô gái đi
làm về. Còn cô gái từ lúc biết có người từ
trên cao nhìn xuống, không còn tắt máy lẳng lặng
vào nhà như mọi khi. Sau khi đóng cửa xe lại, thế nào cũng
ngước lên cười với chàng một tí. Chàng chỉ cần
có thế, chỉ cần có bấy nhiêu đó mà thôi, hồn
mình bỗng nhiên dịu vợi. Hai người đã mặc
nhiên quen biết nhau: người chờ và kẻ được chờ. Cô gái nhỏ gọi chàng bằng
chú, chàng gọi cô gái bằng cô bé để thay thế tên gọi.
Cả ngày chàng chỉ cần hai tiếng chào chú êm dịu
phát ra từ cái miệng hình trái tim nhỏ nhắn kia.
Ðến nỗi đôi lúc chàng tự giật mình, không biết
mình chờ đợi cô gái đến khát khao để nghe hai tiếng
chào dịu dàng hay là để tìm lại một khuôn mặt,
một bóng hình đã xa trong dĩ vãng? Chỉ biết
hai ngày cuối tuần cô gái không đi đâu, vắng cô gái theo thói
quen, chàng đâm ra buồn thơ thẩn. Chẳng lẽ nào cô gái lại
chiếm lấy tâm hồn già nua đầy cằn cỗi cuả
mình? Chẳng lẽ chàng đã yêu cô gái này như một
cơ duyên tiền định? Một trái tim héo hắt muộn phiền
đã ngủ quên một thời gian dài nay bỗng nhiên thức
dậy? Ngày ra trường tôi có mười
ngày phép để chuẩn bị về đơn vị mới. Mười
ngày đó tôi và Ðành chính thức yêu nhau. Mười ngày khoảng
thời gian không đủ dài để tôi dành tất cả cho
nàng. Nhưng biết sao hơn, chiến tranh đang tàn phá quê hương. Ngoài
Ðành ra tôi còn có bổn phận cầm súng để góp
phần bảo vệ nửa mảnh đất hình chữ
S này đang bị Cộng Sản miền Bắc xâm lăng. Ngày
tôi ra đơn vị, Ðành đứng bên cạnh trong lúc chờ đón
xe xuôi về miền Trung, hai con mắt nàng đỏ hoe. Tôi cố
mỉm cười: "Anh không bao giờ dám nghĩ
là sẽ có một ngày mình có một cuộc tiễn
đưa mà anh thì không thể hưá ngày trở lại." "Em cũng thế. Chỉ
sợ chuỗi thời gian sắp tới em không biết phải
làm gì để khoả lấp được nỗi nhớ
anh?" Tôi đùa:: "Thì em "cứ đợi
anh về " như trong tuồng cải lương là xong có gì
đâu." "Nhưng lỡ em không đợi được thì
sao?" "Em cứ việc lấy
chồng là yên chuyện." "Em không đuà với anh nữa" Rồi nàng tuyên bố: "Em đợi không được em sẽ
tìm đến nơi mà anh sẽ đến." Tưởng nàng nói cho suông miệng.
Không ngờ tháng 1/75 đơn vị tôi đang trấn giữ đèo An
Khê, Bình Ðịnh với nhiệm vụ ngăn chận
sư đoàn 320 cuả Cộng Sản Bắc Việt từ mật
khu An Trường cắt quốc lộ 19 nối liền
PleiKu - Qui Nhơn. Giữa lúc hai bên đang ghìm nhau để thăm
dò ý đồ chiến thuật cuả mỗi bên
thì Ðành từ Ninh Hoà ra thăm tôi. Nhìn nàng bơ phờ
hốc hác lặn lội đường xa, sự xúc động khiến
tôi nghẹn ngào. Nàng ở với tôi một tuần và cho
tôi tất cả, kể cả tuổi thanh xuân mà hai đưá tôi
cùng giữ gìn. Biết sao hơn, cả hai chúng tôi cùng ích
kỷ trong tình yêu mà chiến tranh thì khốc liệt
sẳn sàng chia cắt bất cứ lúc nào. Những buổi
sáng, sau một đêm biết mình còn sống, tôi và
nàng ngồi trên đỉnh đèo nhìn xuống đường 19 sâu
thẳm chạy ngoằn ngoèo như một con rắn nhỏ.
Buổi sáng ở đó, sương mù bao phủ đầy cánh rừng
phiá dưới giống như mây bay trong truyện cổ tích. Tôi
và nàng như là đang ở trên mây. Nếu không có chiếc áo jacket
nhà binh quấn chung quanh người nàng cho đỡ lạnh và
trên người tôi không trĩu nặng hai cấp số đạn
trong tư thế sẵn sàng tác chiến thì tôi cứ ngỡ
tôi và nàng đang ở một thế giới khác, thật
bình yên, không chết chóc, không có chiến tranh và thù hận.
Khi mặt trời vưà ló dạng ở phiá đông, chim rừng
đã thi nhau ca hát. Tôi choàng tay qua vai Ðành, nàng nép
mình trong lòng tôi bé nhỏ. Tự lúc đó tôi biết
rằng hồn tôi vĩnh viễn không thể thiếu nàng. Áp lực chiến sự càng lúc
càng nặng. Trước tình hình dầu sôi lửa bỏng,
đơn vị tôi có thể di quân bất chợt. Tôi năn nỉ hết
sức nàng mới chịu về. Chiếc xe Dodge cuả đại
đội đưa nàng trở lại thị trấn Bình Khê.
Khi chiếc xe nhà binh cũ kỹ lăn bánh, nàng nắm chặt
lấy tay tôi, đôi mắt mở to ngơ ngác. Nàng cố thu hết
hình ảnh cuả tôi lần cuối cùng trước khi bịn
rịn thả tay tôi ra. Tôi ráng nhoẻn miệng cười méo
xẹo để nàng yên tâm. Ðôi mắt đó đã làm tôi choáng
váng, không khóc nhưng sao long lanh như ngấn lệ. Nhìn vào
đôi mắt nàng tôi thấy mình sao quá đỗi hiu hắt
cô đơn. Chàng chạm mặt cô gái ở
lối vào Apartment một cách cố ý: "Chào cô
bé" Cô gái đang suy nghĩ điều
gì, giật mình mở to đôi mắt hốt hoảng: "Ồ my god, chào chú." Thoáng một cái, chàng thấy
mình biến thành hai người đứng trong lòng đen
đôi mắt cô gái. Trong khoảng thời gian một phần
ngàn tích tắc, chàng chợt rùng mình. Chàng tình cờ
bước vào đôi mắt đó, mà cả chính chàng và cô gái không hề
hay biết. Cô gái hỏi chàng: "Chú đi đâu thế?" Chàng
thật thà: "Chú đâu có đi đâu. Chú cố
tình đụng đầu với cô bé để làm quen. Bởi
vì hình như chú đã từng gặp cô bé ở một
nơi nào mà chú không nhớ nỗi " Sợ cô gái hiểu lầm với
lối tán gái cũ rích, xưa như trái đất, chàng thêm: "Chú
nói thật đó" Cô gái cười: "Cháu đâu có nói chú dối đâu.
Hay là mời chú ghé lại phòng cháu chơi." "Cô bé
không ngại à?" "Ngại gì. Cháu sống
một mình, quen được chú, thêm một đồng hương nơi
xa lạ này cũng là một điều hay." Phòng của cô gái ngăn nắp,
sạch sẽ không giống như cái ổ chuột của
chàng. Chàng hỏi: "Cô bé ở một mình?" "Không, với một người
bạn gái nữa" "Thế cô bạn đâu rồi?" "Nó nghỉ vacation về "Ðây này..." Cô gái chỉ chung quanh căn
phòng "Không, ý chú muốn hỏi về ba mẹ"
Mặt cô gái thoáng buồn: "Cháu không có ba mẹ" Sợ vô tình khơi lại một
nỗi niềm thầm kín nào đó cuả cô gái, chàng lúng túng:
"Ồ... cho chú xin lỗi, chú không cố ý." " Không sao đâu, cháu quen rồi.
Còn chú?" Chàng đùa: "Chú cũng vậy, chú không
có ba mẹ. Chú ở một mình" "Ý cháu muốn
hỏi vợ con chú kìa" "Chú mồ côi vợ từ
lâu lắm rồi" "Thế ai bảo lãnh chú qua
đây?" " Không ai bảo lãnh hết.
Chú đi theo chương trình HO. Khi phỏng vấn chú ghi danh theo
kiểu con bà phước. Chính phủ Mỹ đưa chú qua đây dưới
sự bảo trợ cuả hội thiện nguyện địa
phương." Chàng sợ cô gái không hiểu
con bà phước là gì, chàng giải thích: "Con bà phước
nghĩa là tứ cố vô thân đó cô bé" Cô gái nhìn chàng thương hại: "Như vậy, đứng về
một phương diện nào đó, hoàn cảnh của hai chú cháu
mình giống nhau." Kết quả những ngày ở
với tôi trên đỉnh đèo An Khê, Ðành mang thai. Ðầu
tháng 3/75 Tiểu đoàn trưởng cấp cho tôi ba ngày
phép đặc biệt để về Ninh Hoà cưới vợ. Thị
trấn hiền lành này cuả những ngày tháng 3/75 sống
trong tình trạng lo âu hốt hoảng. Ban Mê Thuột mất,
phòng tuyến đơn vị Dù trấn giữ Khánh Dương tan vỡ.
Cộng Sản Bắc Việt đang theo quốc lộ 21 tiến
quân về Nha Trang. Tất cả dân Ninh Hoà gởi gấm niềm
tin vào sự chiến đấu cuả các trung tâm huấn luyện
Ðặc khu Dục Mỹ. Tôi cưới vợ trong cơn hấp
hối cuả chính quê hương mình. Trước ngày trở lại
đơn vị, tôi ngồi với nàng suốt đêm bên bờ sông
Dinh để chờ trời sáng. Dòng nước đen xanh dưới
những chòm sao lấp lánh, thấp thoáng một vài đám
lục bình trôi dật dờ không biết giạt về
đâu giữa cơn bão nổ hưá hẹn đổ ập xuống
vùng đất hiền lành. Nàng hỏi tôi: "Khi nào chiến tranh kết
thúc hả Tấn?" "Anh làm sao biết được.
Anh chỉ là người lính chiến đấu theo lệnh. Nhưng
anh nghĩ Ninh Hoà là ngã ba giao liên giữa hai quốc lộ
1 và 21. Ðó là hai quốc lộ chính huyết mạch để
phòng thủ Nha Trang, bất cứ giá naò cũng
phải giữ không thể mất. Mà thôi, em đừng thèm nói
chuyện chiến tranh nữa, nói chuyện mình đi. Anh
chỉ còn ở với em vài tiếng đồng hồ
thôi." Giống như trăm ngàn đàn bà con gái
trên cõi đời này, nàng ngả đầu trên vai tôi khi nói về
tương lai: "Anh thích con mình là con trai hay con gái?" "Con gái giống hệt
em" "Em thích con trai. Con gái cứ
phải hồi hộp đợi chờ cả đời, khổ
lắm. Con trai bay nhẩy đây đó khỏi phải bận tâm.
À này, con mình ra đời anh đặt tên nó là gì" "Em chọn đi" "Không, cho anh chọn trước" Tôi đâu nghĩ một lúc nào đó
mình sẽ có con, nên hơi mắc cỡ. Nhưng thấy nàng
tha thiết đến nghiêm trang, tôi đề nghị: "Hay là em chọn tên con trai,
anh chọn tên con gái" "Cũng được" Như đã có chủ ý từ
trước, nàng dứt khoát: "Nếu là con trai em sẽ
đặt tên cho nó là... Ðăng Quang. Ðến phiên anh"
"Anh à... Nếu con gái anh đặt tên cho nó..." Bây giờ đang là cuối xuân,
nhưng quê tôi đã là chớm hạ. Bởi cây sầu đông
ven sông, những cánh hoa li ti bắt đầu rụng để kết
nụ thành trái. Tôi nhìn những cánh hoa nhỏ xíu trắng
loang loáng trên mặt nước, không khí thật yên lành như thể
chiến tranh đã dừng chân ở một nơi nào xa lơ xa
lắc. "Anh sẽ đặt tên cho con
là Uyên Hạ" Tôi giải thích thêm: "Uyên là đôi uyên ương giống
hai đưá mình. Hạ là muà Hạ, cái muà con mình được
tạo nên hình dáng. Em đồng ý không?" "Nghe hơi caỉ lương, nhưng em
đồng ý" Tôi đưa ngón tay trỏ ra móc ngoéo
với nàng. Ðành chỉ vào đám lục bình trên sông:
"Cuối cùng nó sẽ về đâu anh nhỉ?" "Ra cưả biển. Tất
cả đều ra cưả biển" Nàng thì thầm: "Biển, đó là nơi đến cuối
cùng. Sóng lặng yên lành hay bão tố. Trong chiến tranh
kiếp sống cuả một con người đâu khác gì
đám lục bình trôi bềnh bồng trên mặt nước." Sáng hôm sau tôi trở lại đơn
vị trên chiếc xe đò trống trơn. Bù lại, ngược
chiều là những chiếc xe chật ních người. Dân
chúng miền Trung bắt đầu di tản về các tỉnh
phiá Chúng tôi bò lết trong trạng
thái vô thức, vô tri giác, bò không biết về đâu, làm
gì, trong khi tứ bề thọ địch. Ðang bò bỗng
thằng bạn cắm đầu về phiá trước. Tôi chưa kịp
đưa tay ra đở thì nghe tiếng hét lanh lảnh: "Giơ tay lên. Ðứng dậy" Tôi ngoan ngoãn đưa tay lên khỏi
đầu thật hiền lành. Suốt mấy ngày gần như
không ăn uống thêm sự lo âu không biết bị bắt lúc
nào đã khiến thần kinh tôi căng thẳng muốn nổ
tung. Giờ bị bắt tư ïnhiên tôi thở phào nhẹ
nhõm. Biển rì rào bên cạnh. Tôi hít một hơi thật
dài, khẻ nhắm mắt để lắng nghe một tiếng
nổ thật bình thản. Tiếng hét lúc nãy lại
vang lên: "Một tay để trên đầu,
một tay tháo giày ra mau." Khi tôi vừa buông đôi giày, hai thằng
xông đến. Bằng tất cả sức vũ phu sẵn
có, chúng kéo giật hai khuỷu tay tôi ra đằng sau, dùng dây
dưà trói chặt, tàn bạo không tiếc ngọc thương hương
chút nào. Ðầu mũi súng chọt mạnh vào ngực tôi
đau điếng: "Ði.." Tôi nhẹ nhàng đi trên biển,
gió từ ngoài khơi thổi vào mát rượi. Lần đầu tiên
được đi chân trần sau mười ngày đôi giày không cởi,
ngay cả trong giấc ngủ, tôi có cảm tưởng
mình đang đi trên nhung. Cát biển mịn dưới chân về
đêm âm ấm chui vào từng kẽ ngón. Biển khiến tôi
chợt nhớ có lần hưá với Ðành khi nào về phép
sẽ đưa nàng đi dạo biển Nha Trang về đêm. Chuỗi
ngày sau đó dưới mũi súng cuả những tên Việt Cộng
trẻ con đầu óc đã được nhồi sọ chất
đầy căm thù, đám tàn quân chúng tôi áo quần tơi tả hằng
ngày phải bươi móc, dọn dẹp từng đống gạch
đổ nát ở Quân y viện Qui Nhơn, đem từ trong đó những
xác người mà đầu, mình, tay chân không còn nguyên vẹn.
Những xác người này mới đây thôi còn là chiến hữu
chia xẻ âu lo về số phận cuả một con người
giữa cơn bão lửa. Nay họ đã bình thản
ra đi về cõi vĩnh hằng. Dù uất ức, nhưng ít
ra không còn phải bận tâm lo nghĩ một điều
gì. Giống như lăn bột những con tôm trước khi
cho vào chảo dầu, xác người chết được tẩm đầy
vôi trắng trước khi vứt xuống một cái hố
đào sẵn. Hơn 30 đồng đội bất hạnh được chôn
còn thua một con chó ghẻ. Những đôi mắt mở
trừng trừng không chịu nhắm lại dù tôi cố
lén đưa tay vuốt mắt từng người. Những đôi mắt
ngửa thao láo nhìn lên bầu trời dường như vẫn
còn hy vọng tận cuối phương trời phiá Bọn chúng vẫn khai thác hàng
ngày trên xác thân ốm yếu càng lúc càng tàn tạ này bằng
mọi kiểu. Tôi là một người lính bại trận
không còn gì để nói, cho nên bọn chúng xem tôi là một
tên ngoan cố, cứng đầu. Ðể tránh đau đớn cuả
mỗi lần tra tấn mà da thịt tôi dù thiếu ăn đói
khát vẫn còn cảm nhận, đêm đêm trước mỗi
ngày chúng dẫn tôi từ phòng biệt giam ra để hỏi
cung, tôi tự diệt sức lực còn sót lai cuả
mình bằng cách thủ dâm. Chỉ có cách đó mới đối
phó với những ngọn đòn thù cuả bọn chúng.
Tôi muốn mình không còn đủ sức để tỉnh
khi ngọn đòn tra tấn đầu tiên phủ lấy lên
người. Trước khi chìm vào cơn mê loạn, hình
bóng cuả Ðành hiện về nhức nhói đến buốt
da. Tôi liên tưởng đến nàng, vì nàng là cứu cánh trong
tâm hồn và thể xác khô cằn này. Khi thể xác cuả
tôi bất chợt rung lên những khoái cảm đớn đau đến
nghẹt thở, tôi gọi tên nàng mà không khóc được, bởi
cơ thể không còn năng lượng để tạo ra nước
mắt. Vì tôi cứng đầu nên bọn
chúng đã biệt giam tôi suốt năm năm trời không được
tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau này tôi mới
biết rằng những năm này Ðành cố gắng
tìm tôi nhưng tôi vẫn biệt tích, vì thế nàng
đinh ninh rằng tôi đã chết. Nàng chọn ngày 31/3 là
ngày Qui Nhơn bị mất để làm đám giỗ cho tôi, và xem
ngôi mộ tập thể ở Gành Ráng là nơi tôi yên nghỉ.
Mười năm biệt xứ từ trại tập trung cải
tạo tôi được thả về. Tôi trở lại con xóm nhỏ
ven sông thị trấn Ninh Hoà ngày xưa. Cảnh cũ đã
không còn. Căn nhà tranh nơi nàng nằm trải tóc tuổi
thơ, bão tố năm nào không làm sụp đổ, nay giặc về
chỉ còn là mô đất trống với cỏ dại mọc
bao quanh. Cây sầu đông nơi đêm cuối cùng ngồi bên nàng trước
ngày trở lại đơn vị đã bị chặt ngang lưng.
Cạnh đó là đầu cuả một con đập bằng tre chắn
qua sông. Rác rưới phiá trên dòng không lối thoát vướng
vào hàng cây chắn ngang cứ dật dờ, dật dờ
làm cho màu nước thêm đục ngầu. Những điều tôi biết
về nàng rất ít. Chỉ biết sau khi mất nước,
nàng sinh con gái, và khi chắc chắn tôi đã chết không
còn hy vọng sống sót trên cõi đời này, nàng
đã ẵm con đi đâu không rõ. Sau có người nói là nàng
đã vượt biên, toàn thể chiếc ghe đều chết
chìm trên biển. Tôi đứng trên thành cầu nhìn xuống
dòng sông. Con đập làm dòng nước lặng lờ
không muốn chảy. Phải chi tôi còn nước mắt
để nhỏ xuống con sông, những giọt nước mắt
sẽ làm đầy con nước, để tất cả khổ
đau cuốn phăng ra biển để gởi đến vợ con
tôi. Con đập chắn ngang dòng sông nơi kỷ niệm giống
như vết dao chặt ngang thân xác này mà không chảy máu. Mười
năm,... tù tội đã biến bên ngoài hình dáng tôi thành
một con người khác, nhưng bên trong những nỗi khổ
đau không thể nào phai dù năm tháng có chất chồng dày dày lớp
lớp. Vì nàng đã bất diệt trong tôi. Chàng hỏi cô gái: "Hoàn cảnh chú và cô bé giống
nhau ở điểm nào?" "Cháu từ đảo qua đây cũng
theo diện con bà phước giống như chú." Nhìn bên
ngoài cô gái gần như là Mỹ hóa, chàng không tin cô gái nói thật.
Tuy thế chàng vẫn tò mò: "Cô bé có thể kể cho
chú nghe tại sao cô bé không có ba mẹ hay không?" Cô gái tỉnh
bơ: "Tại vì ba mẹ
cháu đã chết" "Ồ...cho chú xin lỗi" "Không sao đâu chú." Cô gái buồn buồn.
Hình như có một hấp lực nào đó xui khiến chàng
buột miệng: "Kể cho chú nghe về ba mẹ
đi" Cô gái khẽ gật đầu rồi
ngồi yên. Chàng đưa mắt thử xem con nhỏ tiếp tục
làm gì. Bỗng nhiên khuôn mặt Cô gái xa xăm nhìn ra cửa: "... Mẹ nuôi tôi trong nỗi
nhớ thương người chồng đã mất, chất chồng
và áp bức chung quanh. Ðối với xã hội hiện
tại, mẹ con tôi chỉ là những cọng rơm khô được
hiện hữu bên lề. Tôi vô tư và cầu mong mình yên
lành như vậy, miễn cạnh tôi lúc nào cũng có mẹ bao
bọc chở che. Nhưng chính quyền lại không muốn như
thế, họ muốn đốt cháy luôn cọng rơm bé nhỏ
này, bởi không gian đất trời đã là tài sản mà suốt
30 năm họ cố chiếm cho bằng được bằng mưu đồ
gian manh. Ba tôi khi còn sống là lính, một trong những
lý do đã ngăn chận phần nào thời gian sớm
hơn ý đồ cuả họ. Cho nên khi chiến thắng
chuyện rửa hận họ ngồi tính sổ là chuyện
đương nhiên. Căm thù trút lên đầu mẹ tôi, người đàn bà trở
thành goá buạ ở tuổi hai mươi. Mẹ tôi 20 tuổi với
bào thai 5 tháng còn nằm trong bụng. Mờ tinh sương
đã thức dậy tảo tần đón những gánh rau cuả
dân làng ven thị trấn, để sáng đem ra chợ ngồi
bán. Kiếm sống theo nhu cầu sinh tồn lại thường
xuyên bị kết tội là chây lười lao động, quen thói
ngụy ăn bám hút máu nhân dân. Mẹ tôi là một trong những
đối tượng bị kiểm điểm phê bình hằng
đêm bởi những tội lỗi mà ngay bản thân mẹ
không hiểu được. Nhan sắc cuả một goá phụ ở
tuổi 20 giống như một bông hoa đang nở, thêm một
lý do để đám cường quyền cấp hạ tầng
cơ sở đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân, gia ân bố thí để
mong đòi hỏi một giây phút ngã lòng nào cuả
người thiếu phụ cô đơn. Mẹ âm thầm chịu đựng,
luồn lách tránh né, cầm cự qua ngày để mong sinh được
tôi ra, dạy dỗ tôi nên người. Trong lòng mẹ, tôi
là chứng tích kết hợp bởi máu và tim từ một
mối tình bất tử. Mẹ vẫn âm thầm hy vọng
trong một nhiệm mầu ba tôi vẫn còn sống
trên thế gian này để mà trở lại. Nhưng thực sự
ba tôi đã chết. Mẹ kể ở năm tôi lên 8 tuổi,
cái tuổi chưa thấu hiểu nổi chuyện đời,
nhưng có thể ghi nhận được những gì mà
mình không thể nào quên. Mẹ kể vào một ngày cuối
tháng 3, khi chiến tranh kể như chấm dứt tại thị
xã Qui Nhơn thì ba tôi đã nằm xuống trong tư
thế cuả một người chiến bại. Ðối
với kẻ chiến thắng, đó là cái chết tất yếu
cuả một tên làm tay sai Mỹ ngụy đầy nhục
nhã. Nhưng đối với mẹ, ba là một anh hùng
vì người đã nằm xuống trên mảnh đất
mà người có nhiệm vụ cầm súng để bảo vệ.
Ba tôi đã chiến đấu cho đến phút cuối cùng không
hề bỏ chạy như một số người. Ba đã
chiến đấu chống lại cái phi nhân, bất nghĩa
mà hôm nay mọi người đã thấy. Ba tôi không thành công
vì ngươi là lính chịu chung số phận nghiệt
ngã theo một qui luật, nhưng ba đã thành nhân, ít nhất
ra đối với mẹ và sau này là tôi. Tám tuổi, một
đêm mưa buồn trong túp lều tranh xa xôi quê nhà, mẹ ôm tôi
vào lòng kể lại chuyện tình giữa ba với
mẹ. Mẹ kể có những buổi sáng mây mù bao quanh
trên đỉnh đèo An Khê, mẹ dựa vào vai ba bềnh bồng
trên mây. Ba vững như ngọn núi để mẹ là mây quanh năm
bao phủ. Mẹ chỉ con đập chắn ngang dòng
sông trước nhà, mẹ nói nơi đó trước đây có một cây sầu
đông. Ðêm cuối cùng ba ngồi với mẹ nhìn những
cánh hoa sầu đông nhỏ xíu lăn tăn gợn trên mặt nước
để đặt tên tôi. Có một thoả ước giữa ba và
mẹ, mẹ đặt tên con trai, ba đặt tên con gái. Khi ra đời
vì tôi là con gái nên thừa hưởng cái tên do ba để lại
như một di sản của người. Tôi còn nhớ có lần
mẹ dẫn tôi đến biển, mẹ nói đây là Gành Ráng, mẹ
chỉ mô đất, một lùm cây nhỏ đúng hơn, mẹ bảo
đấy là ngôi mộ mà người ta đã vùi xác ba cùng tập
thể hơn 30 đồng đội cuả người. Mẹ nói những
người đã chết trong lúc bất ngờ không thể
nào nhắm mắt. Mẹ còn nói đời mẹ giống
như những đám lục bình bập bềnh trên dòng
sông quê nhà. Tất cả cuối cùng đều ra biển để
phó thác cho may rủi. Thế rồi mẹ quyết định
ra đi." Cô gái xuất thần tiếp
tục nói với khoảng không trước mặt, gần như
chẳng hề biết có chàng đang ngồi bên cạnh. Cơ hồ
như nếu không có chàng, cô gái vẫn có thể nói một
mình, nói với chính mình nỗi đau chất chứa
bao năm. Còn chàng, những giọt nước mắt tưởng
đãkhô cạn bao năm trong quá khứ đắng cay, trong hiện
tại phũ phàng, trong tương lai muôn trùng bỗng nhiên rơi đầy
khuôn mặt. "Ngày thứ 15 lênh đênh trên
biển vì lạc hướng đi, mọi người trên thuyền
chỉ còn biết mong chờ phép lạ. Trong cơn nguy
nan tâm lý chung người ta thường cầu xin đấng
thiêng liêng vô hình thương xót. Thượng đế, hoặc là
không có thực, hoặc là những người trong chuyến
đi nặng đầy nghiệp chướng, cho nên đáp những lời
cầu xin bi thương đó biển đem lại cho họ một lũ
người dã man hung dữ còn hơn loài cầm thú. Những
tên ác nghiệt này giật mạnh tôi từ trong tay mẹ vứt
vào góc thuyền. Mẹ hét lên trong phản xạ cuả một
con cọp cái bị cướp mất đứa con, nhào tới
cào cấu cố dành lại được tôi. Mẹ mạnh mẽ
phi thường trong tim óc, nhưng thể xác mẹ yếu đuối
mỏng manh. Một tên đập báng súng vào mặt mẹ, tôi
nghe tiếng súng nổ và mẹ rơi xuống biển. Tôi chỉ
biết thét lên hãi hùng. Sau đó tôi ngất lịm không
còn biết gì nữa. Sau này tôi được biết
tôi là một trong năm xác chết còn sống bị bỏ
sót lại trên ghe mà người ta cứu được. Tôi đã mất
thời gian bao năm tháng để lấy lại quân bình, và
cứ thế tôi lớn lên đầy muộn phiền trong trại
tị nạn Bidong Mã Lai cho đến khi được một
gia đình từ tâm bên Mỹ nhận bảo trợ để
qua đây... Hiện tôi đang sống bình thản như một
người đã chết, còn những người đã
chết thì đang sống muôn đời trong tận cùng nỗi
đớn đau mà tôi ấp ủ." Cô gái ngừng nói. Tự nhiên
cô nhoẻn miệng cười đưa chiếc khăn tay lên chậm
chậm hai con mắt của mình. Ở đó là những
giọt lệ long lanh: "Cháu bỗng dưng bắt chú
nghe chuyện của cháu, kỳ ghê. Nhưng cháu cũng không hiểu
sao ở chú dường như có một cái gì khiến cháu cầm
lòng không nổi. Một cái gì đó đã gây cho cháu
vô cùng xúc cảm." Chàng không trả lời cô gái,
chàng chỉ hỏi một điều gần như lạc đề:
"Cô bé có còn giữ tấm hình nào cuả mẹ
hay không?" "Dạ còn, chú muốn
xem à?" Chàng gật đầu. Cô gái đứng
dậy lục trong xách tay, lấy đưa cho chàng một tấm
hình đen trắng. Tấm hình đã muốn ố
vàng vì thời gian năm tháng. Trong hình một người
đàn bà khoảng 24, 25 tuổi đứng gần bên một đưá bé
gái. Sau lưng là căn nhà tranh, một bên chái quỵ hẳn xuống
được chống lên bằng cây nạng gỗ. Căn nhà trông giống
như một phế binh lạc loài cô đơn. "Ðây là mẹ cháu. Ðưá
bé gái này là cháu lúc đó lên năm tuổi." Người đàn bà mái tóc cắt ngắn,
không còn dài như xưa, nhưng khuôn mặt kia làm sao chàng quên được.
Khuôn mặt đó đã tan thành máu nuôi cơ thể chàng suốt
bao năm. Chàng hốt hoảng quay sang nhìn cô gái. Lúc này
chàng mới phát giác ra rằng: mái tóc đó, khuôn mặt đó, đôi mắt
đó, vóc dáng đó là của Ðành hai mươi năm về trước. Thảo
nào khi gặp cô gái chàng đã có cảm giác thân quen như đâu từ
muôn kiếp. Thật giản dị, tại
sao mãi đến giờ phút này chàng mới biết được?
Chàng cũng chợt nhớ, từ lúc quen cô gái đến giờ
chàng vẫn chưa có dịp hỏi tên. Giờ thì chàng hỏi
mà giống như kiểm chứng, xác nhận một điều: "Cô bé có phải tên là... Uyên
Hạ?" Cô gái ngạc nhiên gật đầu,
chàng tiếp: "Mẹ cô bé tên... Ðành? Lần này thì cô gái thảng
thốt: "Tại sao?....Tại sao
chú lại biết tên mẹ cháu?" Giống như vừa kéo xong một
bi thuốc lào vào buổi sáng bụng trống, chàng nói trong
cơn say dật dờ choáng váng như là nói cho riêng mình
đã trở thành một hồn ma hiện về báo mộng: "Vì sao à?...Vì tấm
hình này là hình của vợ con ta. Vì mái tranh
nghèo đổ nát phía sau là chứng tích nơi ta đã từng đến
đó, từng ở đó từ những năm tháng còn thơ. Trước
mặt còn có một dòng sông, lần cuối ta ngồi
bên ai vào một đêm tối trời để đặt tên cho con là
Uyên Hạ. Và bởi vì ta là người lính thua trận mà
hai mươi năm về trước, mẹ con tưởng rằng ta
đã chết. Quan Dương main menu |